Nguồn gốc Karate
07.06.2013 08:04
|
|
Thời hồng hoang nguyên thủy, khi con người còn săn bắt hái lượm cũng đã biết võ thuật để tồn tại. Ngày nay, mọi người trên thế giới vẫn nghĩ về Okinawa - Một hòn đảo lớn nhất của quần đảo Ryukyu là đất tổ của Karatedo (Không Thủ Đạo).
Vào đời nhà Lương ở Trung Quốc, năm 520 (sau Công nguyên) có một vị sư (Tổ sư thứ 28 của Phật giáo) từ Ấn Độ sang Trung Quốc truyền đạo đó là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma). Tại đây, ông là Sơ tổ của Thiền tông. Vì vua Lương Võ Đế và triều thần không hiểu được diệu đạo nên ông vượt sông Trường Giang (theo truyền thuyết trên một cọng cỏ lau) đến trú trì tại chùa Thiếu Lâm (tỉnh Phúc Kiến) ngồi thiền ( Zazen) nhìn vách đá chín năm. Pháp môn tu tập của ông rất khó nghiên cứu mà phải chứng nghiệm trực tiếp (Giáo ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự, Trực chỉ chân tâm, Kiến tánh thành Phật). Một hôm, ông thấy môn đồ không chịu đựng nổi thời tiết giá rét khắc nghiệt khi hành thiền, nên thét lên một tiếng “Kiai” để lay thức nội tâm, hợp nhất sức mạnh, gia tăng khả năng chịu đựng cho các đệ tử. Từ đó, ông hướng dẫn Dịch Cân Tẩy Tủy Kinh để bảo tồn sức khỏe và mười tám thế võ giúp đệ tử vượt qua trở ngại, khó khăn khi đi truyền đạo. Vì vậy, nên người ta gọi là Shorin Kempo (võ Thiếu Lâm), thời nhà Đường có tên gọi là Tote (Đường Thủ).
Đến thế kỷ 15, khi Ryukyu còn bị Trung Quốc thống trị, một vị Lãnh sự Trung Quốc đã mang môn Shorin Kempo của nước này đến Ryukyu . Tại đây, môn Kempo của Trung Quốc đã được chấp nhận và bản địa hóa. Lúc đầu, nó chỉ truyền bá trong khu kiều dân Trung Quốc, được hình thành ở ngoại ô thành phố Naha rồi sau đó xuất hiện ở Shuri và Tomari. Tuy nhiên, sau Kỷ nguyên Kamakura (năm 1200), môn Kempo này cũng không giữ được bí truyền. Nó được người Nhật khám phá, nghiên cứu và phối hợp với nhiều võ phái để có một môn võ khác khoa học và thực dụng hơn.
Năm 1429, vào thời Muromachi, vua Sho Hashi hoàn tất việc thống nhất các lãnh địa ở Okinawa . Để ngăn chặn mưu toan nổi loạn, nhà vua nghiêm cấm việc sử dụng vũ khí ngoại trừ quân đội, các nhà quý tộc và triều đình. Đến thế kỷ 17 (năm 1609), dân chúng trên đảo chịu sưu cao thuế nặng bởi sự xâm chiếm của Lãnh chúa Satsuma, nhất là lúc quyền lực tập trung trong tay của Tổng đốc Toyotomi Hideyoshi mà dân chúng thời đó gọi là “cuộc săn kiếm của Hideyoshi”. Người dân chỉ được phép dùng dao khi đã đăng ký mượn trong một thời gian rất ngắn nên từ đó, các hệ phái môn Kempo đã phải hoạt động ngầm. Người dân đảo này muốn thắng được quân lính có trang bị vũ khí sắt bén họ phải nung nấu ý chí bằng cách hạ thủ đối phương chỉ bằng một đòn đánh. Muốn được vậy, họ bí mật khổ luyện hằng ngày, qua nhiều tháng năm đã biến tay chân và những bộ phận khác của cơ thể thành một thứ vũ khí có sức hủy diệt lớn. Để có hiệu quả của lực công phá, họ phải tập cho chai cứng các ngón tay, nắm đấm, phải xĩa hàng ngày vào thùng đậu dần dần cho đến tận đáy thùng hàng nghìn lần. Sau một thời gian luyện tập điều đặn, bài tập này được thay vào là cát, sạn, sắt vụn và các vật thể khác. Để có được một quả đấm trên 700Kg, hằng ngày họ phải đấm qua thác nước không để ướt tay hoặc gắp ruồi trên chén cơm để luyện một đòn đấm, một cú chặt bằng cạnh bàn tay. Muốn có một cú đá trên 1000Kg, họ đá hàng vạn lần vào các thân cây, bó mây có tính đàn hồi . Trong kỹ thuật của nghệ thuật tự vệ, đòn đấm, đá, đỡ… phải cực nhanh mới tạo ra sức mạnh và đạt tốc độ tối đa. Vận tốc sẽ làm tăng động lực theo công thức KE=1/2 M x V2 (KE là động lực, M là khối lượng, V là tốc độ). Nếu khối lượng (M) tăng gấp đôi thì động lực (KE) tăng gấp đôi. Nếu tốc độ (V) tăng gấp đôi thì động lực (KE) sẽ tăng gấp bốn lần. Đồng thời, họ áp dụng lực phản (→N = -→P) tức là đánh (hoặc đá) ra giật vào cùng một thời gian (trên một đường thẳng khương tuyến) như viên đạn bắn ra khi xuyên phá mục tiêu mới có hiệu quả. Đòn đỡ (Uke) cũng sẽ giảm tác dụng nếu không áp dụng quán tính Moment (↑↔↓M=F. d). Vai trò của hông, vai, lưng… khi thực hiện kỹ thuật phối hợp với bụng dưới sẽ tạo lực rất nhiều cho sức mạnh tổng thể, xuyên suốt. Nguyên lý thăng bằng (F1d1= Fedz, →F21 = -→F12) được áp dụng là điều không thể thiếu vắng. Từ huyệt Đan Điền (Taden) trở xuống chân đế là nơi chịu trọng lượng cơ thể để giữ thăng bằng, vai trò của hai bàn chân làm nhiệm vụ di động cho trọng lượng đó. Nếu phối hợp liên động nguồn lực (Kime) toàn thân với các nguyên lý trên, đòn thế của họ khi đến mục tiêu sẽ mang lại kết quả tuyệt diệu. Khi cần dứt điểm, họ thét “Kiai”để huy động tập trung cường lực phối hợp với hơi thở mới có thể phá vỡ áo giáp sắt hay chiếc mũ thép của đối phương được. Phương pháp thở bằng cơ hoành cũng được phối hợp nhịp nhàng qua các kỹ thuật. Họ phải ngồi Thiền (Zazen) hằng ngày cho đầu óc trống không, tập trung tư tưởng để khai thác năng lượng bản thân. Sự phối hợp phòng ngự, công, thủ được các cao thủ chiêm nghiệm giữa thiên nhiên và con người, hoặc qua thực chiến để sáng tạo thành những quyền pháp (Kata) rất có ý nghĩa.
Để qua mắt đối phương, họ sáng tạo các vũ khí trá hình làm cho đối phương bất ngờ, phải khiếp sợ. Đó là những nông cụ để tác nghiệp của người nông dân chống lại dáo, gươm, thương, kích… khiến đối phương phải nhiều phen chiến bại. Những vũ khí này trước tiên là đòn gánh dài khoảng 2m như trường côn (Bo) sử dụng quyền biến trong mọi tình huống. Tiếp theo là chiếc néo đập lúa (còn gọi là côn nhị khúc hay Nunchaku) được sử dụng vừa bảo vệ thân thể vừa tấn công đa phương, làm đối phương có vũ khí sắt bén khó xoay xở được. Câu liêm (Kama), cặp câu liêm (lưỡi hái) cũng là vũ khí nguy hiểm cho đối phương mang kiếm. Đòn xay bột (Tonfa) với đường đi rất khó nhận biết vô cùng lợi hại khi sử dụng hai cái. Xóc rơm đinh ba (Sai) như một kiếm ngắn nhưng trùi mũi, đánh được cả hai đầu, có hai mấu để bắt, khóa, có thể sử dụng hai hoặc ba Sai trong tay một người sử dụng thành thạo. Lúc lâm trận, nó có thể gài bắt, ném, phóng và bẻ gãy kiếm đối phương một cách dễ dàng. Đa phần các loại vũ khí của Okinawa đều làm cho đối phương không ngờ và dấu diếm an toàn ở tay áo hoặc ngực áo. Với trình độ cao, người sử dụng có thể khống chế kiếm, kích, mã tấu v.v....
Đến thế kỷ 18, chính sách nghiêm cấm sử dụng vũ khí trong dân chúng nói trên chấm dứt. Năm 1901, Karatedo được chấp nhận như một môn học trong chương trình giáo dục thể chất tại các trường phổ thông ở Shuri của Okinawa nên còn được gọi là Okinawate. Vì có sự hòa trộn giữa võ cổ truyền người Nhật và môn võ gốc Okinawa nên qua các thời kỳ nó có nhiều tên gọi khác nhau.
Vào đầu thế kỷ 20 (năm 1916), thầy Gichin Funakoshi - Người đã Hiện đại hoá Karatedo (Học trò của Tổ sư Yasutsune Itosu) từ Okinawa về Nhật Bản truyền bá môn Karatedo hiện đại. Tháng 5 – 1922, tại trung tâm Thể dục thể thao Tokyo, thầy đã giới thiệu và biểu diễn môn võ này. Sau đó, thầy giữ chức Chủ tịch Hội võ thuật Cấp tiến Xã hội Okinawa (Okinawa – Shobukai). Đến năm 1929, thầy Gichin Funakoshi đã thay đổi các từ tượng hình để viết chữ “Không” theo nghĩa “Hư vô” nhấn mạnh tính không của vạn pháp dựa theo nguyên lý “Vô hành, vô tâm, tâm vô trú xứ” và lấy tên là Karatedo (Không Thủ Đạo). Thầy cũng hệ thống lại môn võ này thành ba phần chính là : Kỹ thuật căn bản (Kihon Kititsu), Quyền (Kata) và Đối luyện (Kumite) được các hệ phái khác ủng hộ, thời kỳ này gọi là Shin Karatedo (Tân Không Thủ Đạo). Cũng ở thời gian này, các câu lạc bộ được thành lập trong các trường Đại học Hoàng gia ở Tokyo, Shoka, Takusoku…
Năm 1930, thầy Kenwa Mabuni (Chưởng môn Hệ phái Shito Ryu) và Chojun Miyagi (Chưởng môn Hệ phái Goju Ryu) cũng đã thành lập nhiều Câu lạc bộ Karatedo lớn ở Osaka. Đến năm 1935, thầy Gichin Funakoshi biên soạn và xuất bản cuốn sách “Karatedo Kyohan” tạo bước phát triển vững chắc trong làng võ thuật Nhật Bản. Năm 1936, thầy đã thành lập Hệ phái Shotokan Ryu (Tùng Đào Quán Lưu). Sau này, thầy Hironiri Ohtsuka cũng thành lập Hệ phái Wado Ryu (Hòa Đạo Lưu). Bốn hệ phái chính này có một số nét đặc trưng phòng ngự như sau:
1) Hệ phái Shotokan Ryu (Tùng Đào Quán Lưu): “Đòn đỡ cũng là đòn tấn công dưới sự bộc phát của cường lực (Kime) cao nhất” . a) Sức mạnh: Tốc độ càng nhanh thì sức càng mạnh, cường lực càng dũng mãnh mới xuyên phá được mục tiêu như khi luyện công phá. Bạn phải tập trung sức mạnh bàn tay (hoặc chân) và khi va chạm phải xuyên suốt bất kỳ vật cản nào mới mang lại hiệu quả. Trong đối kháng hiện đại, khi một đòn đấm thuận vào trung tâm cơ thể đối phương, bạn dùng bàn chân trước để xoay mũi chân sau về trước, tay cùng chiều với chân đấm ra chuyển thân mình thành tấn trước, vai nghiêng 450 khi chân chạm đất trước mặt. Hiệu quả của nó là ở cường lực xuyên phá. Trong đối kháng truyền thống, lúc đối phương đang lao nhanh vào tấn công bạn là thời điểm bạn sử dụng sức mạnh tối đa, chỉ cần một kỹ thuật đá ngang (Yoko geri) cho hai lực nghịch cộng lại sẽ có hiệu quả tốt. Đỡ bằng nắm đấm (Ken) để ngăn chặn đòn tấn công của đối phương trực tiếp là lấy sức mạnh để phá vỡ sức mạnh. b) Tốc độ: Đỡ nhanh nhẹn, nhu nhuyễn. Nó thuần về kỹ thuật tay mở (Sho), không va chạm trực tiếp, để linh hoạt dự bị cho những kỹ thuật phản công ngay sau khi đỡ. Đồng thời, bạn phải phối hợp tốt di chuyển thân pháp nhanh nhẹn để thực hiện kỹ thuật. Những kỹ thuật căn bản nhưng được tập luyện thường xuyên như: Jodan age uke, Chudan uchi uke, Gedan Barai để được chuẩn xác phương hướng, phát lực hiệu quả. Sau đó, bạn tăng tốc độ, di chuyển theo đòn tấn công của đối phương. Những kỹ thuật này được biến thế qua kỹ thuật tay mở. Dạng này cũng được áp dụng trong các quyền thức các bài quyền nhập môn chủ yếu là nắm tay. Khi quá trình luyện tập lâu hơn, theo trình độ tăng tiến, bàn tay mở sẽ áp dụng nhiều hơn. Đòn đỡ của Shotokan Ryu là Tốc độ + Sức mạnh = Kime. 2) Hệ phái Wado Ryu (Hòa Đạo Lưu): “ Đòn đỡ cũng là điều kiện để tấn công”. Đòn đỡ luôn là động tác dự bị tấn công, nó sẽ không thực hiện nếu không nhằm mục đích tấn công. Đòn đỡ muốn có hiệu quả phải trên cơ sở đòn tấn công của đối phương nương theo chiều tấn công, không cản lại bằng những kỹ thuật Nagashi (dòng chảy), Inashi (đã qua) và Nori (cưỡi) để làm giảm lực tấn công của đối phương. Khi đỡ đòn, kỹ thuật rất đa dạng, nhiều bộ vị trên cơ thể được sử dụng triệt để, tiến thoái xoay chuyển được chia đều cho toàn thân để nương một cực nhỏ chống đối lại cực lớn với phương pháp “Tam vị nhất thể” (3 trong 1). Ví dụ: đối phương tấn công một đòn đấm vào mặt, bạn sẽ nương theo đòn ấy chia đều khoảng cách cho các kỹ pháp: chuyển vị tức là thay đổi vị trí chân, chuyển thể tức là xoay chuyển toàn thân bằng hông và chuyển kỹ tức là làm biến đổi kỹ pháp. Nếu được vậy, bạn sẽ không chỉ vận dụng nhiều kỹ thuật ở đôi tay mà là của kỹ thuật toàn thân. Trong tập luyện, bạn luôn ý thức ”Phòng ngự là tấn công và tấn công cũng là phòng ngự”, không sử dụng kỹ thuật đơn điệu mà phải sáng tạo. 3) Hệ phái Shito Ryu (Mịch Đông Lưu): “Quán tưởng (nhìn thấy) đối phương để có kỹ thuật phù hợp”. Hệ phái này chú trọng các động tác nhanh nhẹn,tư thế đối kháng với tấn cao di động hữu hiệu, ít sử dụng lực, không cứng nhắc nguyên tắc mà sáng tạo phù hợp theo thể tạng mỗi người. Quan điểm của Hệ phái Shito Ryu theo phương châm: a) Rakka (Cánh hoa rơi): Đón đỡ đòn tấn công của đối phương đến như hứng đỡ cánh hoa đang rơi xuống mặt đất. b) Ryusui (Dòng chảy): Khi đỡ đòn tấn công của đối phương, ta phải nương theo lực đánh của họ như dòng nước chảy chứ không đỡ trực tiếp. c) Ten-i (Hoán vị): Đòn tấn công của đối phương đến, chúng ta di chuyển thích hợp theo một trong tám hướng với đòn tấn công đó. d) Kussin (Ẩn thân): Đòn tấn công của đối phương đến, chúng ta hóa giải bằng cách co duỗi thân thể, tạo khoảng cách an toàn mà đòn tấn công không thể va chạm được, ngay sau đó trở về vị trí cũ để phản công. e) Hangeki (Phản kích): Phòng ngự và tấn công là một (Công phòng nhất thể), các bạn hóa giải được từ dự đoán được đòn tấn công của đối phương và phản công ngay cử động đầu tiên. Tất cả phương pháp hóa giải của Hệ phái Shito Ryu được tập luyện từ kỹ thuật căn bản đến quyền thức, luôn ước lượng tốc độ, sức mạnh đối phương để áp dụng kỹ thuật có lợi thế cho ta. Nếu bạn cảm thấy tình huống khoảng cách không có lực, hãy áp dụng “Cánh hoa rơi”. Bạn hãy luôn soi rọi, tìm kiếm kẻ hở của đối phương để có kỹ thuật phù hợp. 4 )Hệ phái Okinawa Goju Ryu (Cương Nhu Lưu): Quan niệm của hệ phái này là “Chuyển động tròn” tức ứng dụng trong phòng ngự hoặc tấn công muốn có hiệu quả tốt, phải xoay chuyển liên động của các thành phần thân thể: hông, vai, cánh tay, chân v.v…Để hóa giải, bạn ứng dụng quán tính Moment (↑↔↓M=F. d ) vào kỹ thuật để lực mạnh nhất phát sinh vào giai đoạn giữa, khi lực va chạm đến sẽ bị triệt tiêu. Trong Goju Ryu, kỹ thuật được ước lượng tốc độ và sức mạnh, những sức mạnh không có lợi sẽ bị loại bỏ dần, kết hợp với các kỹ thuật nhu để cương nhu được nhuần nhuyển tạo ra sức mạnh tối đa. Hệ phái này chú trọng những điểm nhấn về các động tác nhanh-chậm-thả lỏng kết hợp sự điều khí hít thở cơ bụng, các kỹ thuật ngắn gọn, chặt chẽ. Phương pháp tập luyện có 3 cách: a) Luyện kỹ thuật Hachisabaki (Tám tám): Cánh tay xoay chuyển theo hình số 8 tạo sự linh hoạt cho chân và hông. Phương pháp di chuyển 4 phương hướng chính 900 và 4 hướng chếch 450. b) Kakie (Quái thủ): Tạo sự niêm dính của hai cánh tay. c) Sanchin (Tam chiến): Bài quyền giúp tấn pháp kiên cố để phát triển toàn diện. Karatedo có trên một trăm hệ phái, mặc dù có rất nhiều hệ phái khác nhau nhưng tất cả đều theo một hệ thống võ thuật thế giới. Đến năm 1940, Karatedo được tôn vinh ở Nhật Bản, trở thành bộ môn tiêu biểu nhất trong làng võ thuật nước này, rất nhiều trường Trung, Đại học đã thành lập Câu lạc bộ riêng. Karatedo không những được giới trẻ yêu thích để phát triển thân thể cường tráng, giáo dục tinh thần và thể chất mà còn đến với giới trung niên, các em thiếu niên như một phương cách gìn giữ sức khỏe. Môn võ này cũng rất tiện ích cho người phụ nữ nào muốn có một thân hình thon thả và để tự vệ khi cần thiết. Cũng vào năm này, thầy Choji Suzuki (Tổ sư của Karatedo Việt Nam) - Thuộc Hệ phái Takeno Uchi Ryu (Trúc Chi Nội lưu) của dòng thiền Soto (Tào Động) ở Nagasaki truyền thụ với mục đích “làm giàu tri thức, giàu ứng xử và giúp người là giúp mình”. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc vào năm 1945, thầy tình nguyện ở lại Việt Nam dạy những bài võ Karatedo truyền thống đầu tiên mang tính chiến đấu thực dụng cho bộ đội, tự vệ ở Liên khu bốn, sau đó chuyển công tác về Liên khu năm. Đến năm 1956, thầy thành lập Đạo đường Linh Trường Không Thủ Đạo (Suzucho Karatedo Dojo Noen Ryu) tại Huế, Suzucho là họ và tên ghép của người sáng lập nhưng cũng có nghĩa là “Tiếng chuông vang xa”. Hệ thống giảng dạy của hệ phái này là phương pháp Tewaza, Ashiwaza, Ukewaza, Ozodosad… cùng 9 bài quyền Yen và Maki nhằm mục đích “làm giàu tri thức, giàu ứng xử và không vì danh lợi cá nhân, quyền lực, được, mất, thực, hư ở cõi người” với tôn chỉ truyền thống: “Nhân ái, Trí tuệ, Dũng cảm” để rèn luyện tinh thần và thể chất, hành xử quang minh, chính trực, công bằng và cao thượng. Lấy sự chính trực và lòng chân thật làm hành trang đi tới Đạo. Với môn quy rất nghiêm khắc, người nhập môn phải chuẩn mực đạo đức, tôn trọng Đạo đường (Dojo), nghi thức, trung thực với mọi người, không chửi thề, thậm chí không hút thuốc lá, uống rượu. Họ được tôi luyện để bình thản với thắng, thua ở đời thường bằng một niềm tin, thấu đáo mọi lẽ, với khát vọng, ước ao đã hoạch định để hành động nổ lực đến mục đích mong muốn, nhằm vươn tới Chân - Thiện - Mỹ. Hệ phái Suzucho Karatedo Ryu có độ dày hoạt động khá lâu và nhất là thầy Chưởng môn sống gắn bó hơn nữa cuộc đời mình với Việt Nam - Nơi có truyền thống văn hóa lịch sử hào hùng nên hấp thụ nền văn hóa ở đây. Vì thế, môn võ này mặc nhiên trở thành Karatedo Việt Nam, có lực lượng môn sinh đông đảo nhất. Hiện nay hơn bốn vạn người tập luyện hằng ngày với năm khu vực của sáu mươi tư tỉnh, thành. Ngoài ra, hệ phái còn có trên mười Phân đường đã phát triển ở các quốc gia khác như Australia, Mỹ, Canada và Đông âu…Thời gian qua, Karatedo Việt Nam đã gặt hái nhiều thành quả vẻ vang với rất nhiều huy chương vàng, bạc ở các giải Khu vực, Châu lục và Thế giới mang vinh quang về cho Tổ quốc. Tổ chức Hệ phái hoạt động theo truyền thống của cố Chưởng môn đời thứ nhất: Choji Suzuki, được sự bảo trợ của Uỷ ban Thể dục Thể thao Việt Nam. Chưởng môn bổ nhiệm Trưởng tràng thành lập Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và các Ban Chuyên môn. Chưởng môn có thể bãi miễn nếu Trưởng tràng và Ban Chấp hành làm việc không hiệu quả. Hiện nay, Hệ phái này đã chuẩn hóa kỹ thuật hài hòa với bốn Lưu phái chính là Shotokan Ryu (Tùng Đào Quán Lưu), Wado Ryu (Hòa Đạo Lưu), Shito Ryu (Mịch Đông Lưu) và Okinawa Goju Ryu (Cương Nhu Lưu) để cải tiến phương pháp huấn luyện và luyện tập được phát triển trên diện rộng. Môn võ này có thể hoà trộn, thẩm thấu Karatedo Hiện đại và Karatedo Truyền thống để trở thành Karatedo Việt Nam nhưng nét đặc trưng của Suzucho Ryu - Nền móng của tự vệ truyền thống sẽ không lẫn vào đâu được. Ngày 18-3-2007, Hệ phái Suzucho Ryu đã tiến hành Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2007-2012) tại TP.Hồ Chí Minh, đã thống nhất 9 chương trình hành động cụ thể của nhiệm kỳ này với tinh thần đoàn kết, trí tuệ, sáng tạo, chủ động hội nhập và phát triển. Đại hội đã thông qua sửa đổi môn quy, quyết định kể từ nay hệ phái có tên gọi là Suzucho Karatedo Ryu (Linh Trường Không Thủ Đạo Phái), phù hiệu hệ phái theo đúng mẫu cũ (Sư huynh Hạ Quốc Huy thiết kế từ tháng 3-1973), Tổ sư Suzucho Karatedo Ryu : Choji Suzuki (Phan Văn Phúc), Chưởng môn đời thứ hai: Tokuo Suzuki (Phan Văn Minh Đức). Học trò xuất sắc của thầy Choji Suzuki là Lê Văn Thạnh, hiện Trưởng tràng Hệ phái Suzucho Karatedo Ryu - Phó Chủ tịch Liên đoàn Karatedo Lâm thời Việt Nam - Trọng tài Quốc gia - Huấn luyện viên Đội tuyển Karatedo Việt Nam - Trưởng Bộ môn Karatedo tỉnh TT Huế; Lê Công - Phó Trưởng tràng Hệ phái Suzucho Karatedo Ryu - Phó Chủ tịch Liên đoàn Karatedo Lâm thời Việt Nam - Huấn luyện viên Trưởng Đội tuyển Karatedo Việt Nam - Trọng tài Quốc gia; Phó Trưởng tràng Ngô Văn Thanh, Phó Trưởng tràng Nguyễn Tấn Kiệt và Tổng thư ký Nguyễn Ngọc Thạo…ngoài ra, còn có các cao đồ và môn đồ như Henry Nguyễn Xuân Dũng, Hạ Quốc Huy, Trần Đình Tùng, Khương Công Thêm, Hoàng Như Bôn, Nguyễn Bá Kiều, Trần Định, Dương Đình Vinh, Nguyễn Chí Trí, Tôn Vĩ Đại, Trương Dẫn, Nguyễn Đình Kỉnh, Phan Hữu Bốn, Nguyễn Thông, Trương Đình Hùng, Lê Văn Phước, Hoàng Công Minh, Nguyễn Đình Anh Tuấn, Nguyễn Thành Tự, Nguyễn Phi Hổ, Huỳnh Văn Muôn, Lê Văn Lộc, Lê Văn Thọ, Hồ Vũ Sang, Vũ Kim Anh, Nguyễn Nguyệt Ánh, Nguyễn Đình Sơn, Dương Phước Hùng, Võ Ngọc Tín, Dương Đình Hội, Nguyễn Kính, Hoàng Mai Sơn, Phạm Hồng Hà, Hà Thị Kiều Trang, Nguyễn Thị Thảo Quyên, Hồ Thu Nguyệt Hằng, Nguyễn Hoàng Ngân v.v…đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển Karatedo Việt Nam ngày nay. Vào năm 1950, các giải Karatedo được lần lượt tổ chức và phát triển mạnh mẽ tại các trường Đại học Nhật Bản. Thời kỳ này, ở đất Phù Tang, Karatedo tiến xa hơn những khu vực khác cả bề rộng lẫn chiều sâu. Đến năm 1958, Hội Karatedo Nhật Bản tổ chức giải vô địch Karatedo Toàn quốc đầu tiên. Luật lệ thi đấu Không Thủ Đạo đã được đặt ra nhằm mục đích hạn chế tối đa chấn thương, tử vong của vận động viên khi tranh giải. Vì vậy, các cuộc tranh tài càng phát triển, nhất là giữa các trường Đại học và Karatedo đã trở thành môn võ thuật mang tính thể thao. Trong tất cả kỹ thuật của Karatedo đều phải dựa trên nguyên lý toán học, vật lý học và phù hợp tâm - sinh lý học, kỹ thuật cương và nhu được phối hợp khoa học, với những va chạm ngắn, gọn, hẹp nên rất hiệu quả trong thực chiến. Hơn nữa, nó là một môn võ sau nền tảng căn bản là sự sáng tạo, không mặc định, là một loại vũ khí tự có của người tập để chiến đấu trong mọi địa hình, địa vật, trong cả không gian và thời gian hạn chế.
Karatedo là môn võ khoa học hiện đại, là nghệ thuật chiến đấu thực dụng nhưng bằng đức công bằng và lòng nhân ái. Thẩm thấu về Karatedo rất giống với sự thưởng thức nghệ thuật, phải chăng nó là bản tổng phổ trong âm nhạc, một bài thơ, một công trình kiến trúc hay một tác phẩm điêu khắc? hoặc cũng có thể hơn một kiệt tác nghệ thuật? Xét cho cùng thì Karetedo do tự thân sinh ra, nó chính là Đạo và được con người bắt gặp như một kiệt tác văn hóa.
Hiện nay, Karatedo dù là thể thao hay truyền thống cũng đều phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các vận động viên toàn cầu cùng đến với nghệ thuật. Tất cả nhằm tạo dựng tinh thần, hoàn thiện nhân cách, phát triển tuệ giác, tính trung thực và đúng đắn của nhân loại
(Theo Phan Chi) |